Nê-hê-mi 12:1-47

  • Thầy tế lễ và người Lê-vi (1-26)

  • Khánh thành tường (27-43)

  • Ủng hộ việc phục vụ tại đền thờ (44-47)

12  Đây là các thầy tế lễ và người Lê-vi cùng đi lên với Xô-rô-ba-bên+ con trai Sê-anh-thi-ên+ và Giê-sua:+ Sê-ra-gia, Giê-rê-mi, Ê-xơ-ra,  A-ma-ria, Ma-lúc, Hát-túc,  Sê-ca-nia, Rê-hum, Mê-rê-mốt,  Y-đô, Ghi-nê-thôi, A-bi-gia,  Mi-gia-min, Ma-a-đia, Binh-ga,  Sê-ma-gia, Giô-gia-ríp, Giê-đa-gia,  Sa-lu, A-móc, Hinh-kia và Giê-đa-gia. Đó là những người đứng đầu các thầy tế lễ và anh em họ trong thời Giê-sua.  Những người Lê-vi gồm Giê-sua, Bin-nui, Cát-mi-ên,+ Sê-rê-bia, Giu-đa và Ma-ta-nia,+ là người dẫn đầu việc ca hát tạ ơn cùng với anh em mình.  Anh em của họ là Bác-bu-kia và U-ni thì đứng đối diện để làm nhiệm vụ canh gác.* 10  Giê-sua sinh Giô-gia-kim, Giô-gia-kim sinh Ê-li-a-síp,+ và Ê-li-a-síp sinh Giô-gia-đa.+ 11  Giô-gia-đa sinh Giô-na-than, và Giô-na-than sinh Gia-đua. 12  Trong thời Giô-gia-kim, những người sau đây là thầy tế lễ, tức những người đứng đầu dòng tộc: về Sê-ra-gia+ có Mê-ra-gia; về Giê-rê-mi có Ha-na-nia; 13  về Ê-xơ-ra+ có Mê-su-lam; về A-ma-ria có Giê-hô-ha-nan; 14  về Mê-lu-ki có Giô-na-than; về Sê-ba-nia có Giô-sép; 15  về Ha-rim+ có Át-na; về Mê-ra-giốt có Hên-cai; 16  về Y-đô có Xa-cha-ri; về Ghi-nê-thôn có Mê-su-lam; 17  về A-bi-gia+ có Xiếc-ri; về Min-gia-min có...;* về Mô-a-đia có Phinh-tai; 18  về Binh-ga+ có Sa-mua; về Sê-ma-gia có Giê-hô-na-than; 19  về Giô-gia-ríp có Ma-tê-nai; về Giê-đa-gia+ có U-xi; 20  về Sa-lai có Ca-lai; về A-móc có Ê-be; 21  về Hinh-kia có Ha-sa-bia; về Giê-đa-gia có Nê-tha-nê-ên. 22  Những người đứng đầu các dòng tộc của người Lê-vi, cũng như các thầy tế lễ, vào thời Ê-li-a-síp, Giô-gia-đa, Giô-ha-nan và Gia-đua+ đã được ghi tên cho đến triều đại của Đa-ri-út người Ba Tư. 23  Những người Lê-vi đứng đầu các dòng tộc thì được ghi vào sách lịch sử đương thời, cho đến thời Giô-ha-nan con trai Ê-li-a-síp. 24  Những người đứng đầu người Lê-vi gồm Ha-sa-bia, Sê-rê-bia và Giê-sua+ con trai Cát-mi-ên+ cùng anh em mình đứng đối diện nhau để dâng lời ngợi khen và cảm tạ theo lời chỉ dẫn của Đa-vít,+ người của Đức Chúa Trời, các nhóm canh gác đứng song song với nhau. 25  Những người gác cổng gồm Ma-ta-nia,+ Bác-bu-kia, Áp-đia, Mê-su-lam, Tanh-môn và A-cúp+ thì đứng canh+ các phòng kho gần các cổng. 26  Những người ấy phụng sự trong thời Giô-gia-kim, con trai Giê-sua,+ cháu Giô-xa-đác, cũng như trong thời quan tổng đốc Nê-hê-mi và Ê-xơ-ra,+ là thầy tế lễ kiêm người sao chép.* 27  Vào dịp khánh thành tường Giê-ru-sa-lem, người ta tìm người Lê-vi từ mọi nơi họ sống rồi đưa họ về Giê-ru-sa-lem để cử hành lễ khánh thành trong niềm vui mừng, với những bài hát tạ ơn,+ chập chỏa, nhạc cụ có dây và đàn hạc. 28  Các con trai của những người ca hát* tập hợp lại từ quận,* từ mọi phía xung quanh Giê-ru-sa-lem, từ những khu định cư của người Nê-tô-pha,+ 29  từ Bết-ghinh-ganh,+ từ các cánh đồng của Ghê-ba+ và Ách-ma-vết,+ vì những người ca hát đã xây các khu định cư cho mình ở khắp xung quanh Giê-ru-sa-lem. 30  Các thầy tế lễ và người Lê-vi tẩy uế mình, tẩy uế dân chúng,+ các cổng+ và tường.+ 31  Rồi tôi dẫn các quan của Giu-đa lên trên tường thành. Tôi cũng lập hai nhóm ca hát tạ ơn cùng đoàn diễu hành, một nhóm ca hát đi trên tường về phía phải hướng đến Cổng Đống Tro.+ 32  Hô-sa-gia và một nửa các quan của Giu-đa đi phía sau họ, 33  cùng với A-xa-ria, Ê-xơ-ra, Mê-su-lam, 34  Giu-đa, Bên-gia-min, Sê-ma-gia và Giê-rê-mi. 35  Cùng với họ có một số con trai của các thầy tế lễ, là những người cầm kèn.+ Họ gồm: Xa-cha-ri con trai Giô-na-than, Giô-na-than con trai Sê-ma-gia, Sê-ma-gia con trai Ma-ta-nia, Ma-ta-nia con trai Mi-ca-gia, Mi-ca-gia con trai Xa-cu-rơ, Xa-cu-rơ con trai A-sáp;+ 36  và các anh em ông là Sê-ma-gia, A-xa-rên, Mi-la-lai, Ghi-la-lai, Ma-ai, Nê-tha-nê-ên, Giu-đa và Ha-na-ni cầm các nhạc cụ của Đa-vít,+ người của Đức Chúa Trời; còn người sao chép* Ê-xơ-ra+ đi trước họ. 37  Từ Cổng Suối,+ họ đi thẳng lên Cầu Thang+ của Thành Đa-vít+ theo dốc của tường bên trên Nhà Đa-vít và đi tiếp đến Cổng Nước+ ở phía đông. 38  Nhóm ca hát tạ ơn kia đi trên tường về hướng ngược lại,* và tôi cùng một nửa dân chúng theo nhóm ca hát đó đi qua phía trên Tháp Lò,+ đi tiếp đến Tường Rộng,+ 39  đi qua phía trên Cổng Ép-ra-im+ rồi tiến đến Cổng Thành Cổ,+ Cổng Cá,+ Tháp Ha-na-nê-ên,+ Tháp Mê-a và Cổng Cừu;+ họ dừng lại ở Cổng Lính Canh. 40  Cuối cùng, hai nhóm ca hát tạ ơn đứng trước nhà Đức Chúa Trời, tôi và một nửa quan cấp dưới ở cùng tôi cũng vậy; 41  ở đó còn có các thầy tế lễ cầm kèn gồm Ê-li-a-kim, Ma-a-xê-gia, Min-gia-min, Mi-ca-gia, Ê-li-ô-ê-nai, Xa-cha-ri và Ha-na-nia, 42  cũng có Ma-a-xê-gia, Sê-ma-gia, Ê-lê-a-xa, U-xi, Giê-hô-ha-nan, Manh-ki-gia, Ê-lam và Ét-xe. Những người ca hát thì hát lớn tiếng dưới sự giám sát của Dít-ra-hia. 43  Hôm đó, họ dâng rất nhiều vật tế lễ và vui mừng khôn xiết,+ vì Đức Chúa Trời làm cho họ tràn ngập niềm vui. Cả phụ nữ và trẻ em cũng vui mừng,+ nên từ rất xa cũng có thể nghe thấy tiếng reo mừng của Giê-ru-sa-lem.+ 44  Vào ngày đó, có những người nam được bổ nhiệm để cai quản các nhà kho+ chứa những phần đóng góp,+ sản vật đầu mùa+ và các phần mười.*+ Từ những cánh đồng của các thành, họ phải thâu vào kho các phần mà Luật pháp quy định+ để cấp cho thầy tế lễ và người Lê-vi,+ bởi dân Giu-đa rất vui mừng vì cớ những thầy tế lễ và người Lê-vi đang phục vụ. 45  Họ bắt đầu thi hành nhiệm vụ với Đức Chúa Trời mình cũng như bổn phận tẩy uế, những người ca hát và người gác cổng cũng làm thế, theo chỉ thị của Đa-vít và con trai ông là Sa-lô-môn. 46  Vì ngày xưa, thời Đa-vít và A-sáp đã có những người chỉ đạo người ca hát, ngoài ra cũng có những bài hát ngợi khen và tạ ơn Đức Chúa Trời.+ 47  Vào thời Xô-rô-ba-bên+ và thời Nê-hê-mi, toàn thể Y-sơ-ra-ên đã cung cấp các phần cho những người ca hát+ và người gác cổng,+ tùy theo nhu cầu mỗi ngày của họ. Họ cũng để riêng phần cho người Lê-vi,+ còn người Lê-vi để riêng phần cho con cháu A-rôn.

Chú thích

Cũng có thể là “đứng đối diện trong buổi thờ phượng”.
Hẳn là bản tiếng Hê-bơ-rơ không có một tên ở đây.
Hay “viên ký lục”.
Hay “Những người ca hát đã được huấn luyện”.
Tức là quận gần sông Giô-đanh.
Hay “viên ký lục”.
Hay “về phía trước”.
Hay “thuế một phần mười”.